Tổ Sư Lưu Giang Đông

Giới thiệu về Lưu Giang Đông

Lưu Giang Đông (năm 884–972 sau Công nguyên), tên thật là Uyên Tắc, còn có tên là Tử Tiên, biệt danh Thích Bát, hiệu Bạch Đầu, đời sau gọi là Kiến Đạo tiên sinh, người huyện Vu Đô, tỉnh Giang Tây. Sinh ngày mùng 5 tháng 2 năm Giáp Thìn niên hiệu Trung Hòa thứ tư nhà Đường (884), mất vào tháng 11 năm Nhâm Thân niên hiệu Khai Bảo thứ năm nhà Tống (972), thọ 89 tuổi. Giang Đông là chắt tám đời của Lưu Tông Thần, Kim Tử Quang Lộc đại phu thời Đường. Khi Lư Quang Trù làm Thứ sử Kiềm Châu cuối thời Đường, ông cùng Tăng Văn Địch, Hồ Ái Tiên… đồng môn bái Dương Công Quân Tùng làm thầy, từ đó lĩnh hội được bí truyền. Tự tay ông soạn Tam Bảo Kinh lưu truyền đời sau.

Tam Bảo Kinh

Sau khi Lưu công Giang Đông qua đời, được an táng tại thôn Thượng Lao (nay là Thượng Não) cách phía nam 20 Hoa lý. Mộ phần còn nguyên vẹn. Bia mộ khắc: “Thất thế tổ Lưu công Xuyên Lỗ lão phu quân, bát thế tổ Lưu Giang Thúc lão phu quân chi mộ”.

Mộ huyệt nằm ở lưng chừng núi, hình dáng hổ đói trông ra sông, mạch thần khâu châm chữ Canh, thủy Quý bên phải đổ về bên trái, ngoài chèn núi Tốn hướng Kiền kiêm Thìn Tuất, trong an Thìn sơn Tuất hướng kiêm Tốn Kiền.

Người truyền thừa chính của phái phong thủy Dương Công — Lưu Giang Đông

Lưu Giang Đông là truyền nhân chính của Cứu Bần tiên sinh. Theo Hưng Quốc huyện chí thời Đồng Trị nhà Thanh: “Ban đầu, Dương và Tăng không ghi chép văn tự, Giang Đông chỉ lưu lại khẩu quyết”, trong khi Dương, Tăng, Liêu… không để lại văn tự, ông là người ghi chép chính lý thuyết phong thủy của Dương Công, soạn Tam Bảo Kinh truyền lại đời sau. Trong ba đệ tử Dương Công là Tăng, Lưu, Liêu, hai vị Tăng và Liêu coi phong thủy là gia truyền, không truyền cho người ngoài, thực chất phong tỏa thuật phong thủy của Dương Công. Còn Lưu Giang Đông truyền đạo không chỉ cho con cháu, “ai ham học, bất kể họ gì đều truyền”. Qua các đời đệ tử do Lưu Giang Đông truyền miệng, nay đã lan khắp trong và ngoài nước, đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá văn hóa phong thủy Dương Công.

Lưu Giang Đông, tên thật là Lưu Thiệu Hậu, tự Uyên Tắc, còn gọi Thất Bát, Thiêm Bát, cuối đời hiệu Lưu Bạch Đầu, đời sau gọi là Động Kiến Đạo tiên sinh. Người thôn Thượng Lão, Cát Oa, Vu Đô, Giang Tây, sinh năm Trung Hòa thứ tư nhà Đường (884 sau Công nguyên). Lưu Giang Đông sinh ra vào cuối thời Đường loạn lạc. Từ năm Kiền Phù thứ năm (878) đến Trung Hòa thứ tư (884), Hoàng Sào khởi nghĩa, hai năm sau nghĩa quân đánh chiếm Đông Đô Lạc Dương, thừa thắng tiến về phía tây phá Đồng Quan, tiến vào Trường An. Cùng năm Trường An thất thủ, hoàng thất nhà Đường chạy về Thành Đô. Dương Quân Tùng khi ấy làm Kim Tử Quang Lộc đại phu, 47 tuổi, mang theo bí kíp phong thủy trong kho chạy khỏi kinh thành, lánh nạn Giang Nam. Vài thập niên sau, Dương Quân Tùng ở Cám Châu xem phong thủy cho dân, dựng lều dạy học, đến cuối đời mất tại Dược Khẩu, Vu Đô.

Tam Liêu

Khi Dương Quân Tùng chạy khỏi kinh thành, đến Cám Châu lần đầu, Lưu Giang Đông chưa ra đời. Nói về việc Lưu Giang Đông bái sư Dương Quân Tùng học phong thủy, cần giới thiệu một nhân vật quan trọng — Tiết độ sứ Kiềm Châu (nay là thành phố Cám Châu, Giang Tây) lúc bấy giờ là Lư Quang Trù.

Lư Quang Trù, tự Mậu Hy (Mậu Hề), tiểu danh Thập Thất Lang, húy Định Quốc, sinh năm Khai Thành thứ năm nhà Đường Văn Tông (840) tại thôn Thiều Phường, hương Thanh Âm, thôn Hoài Đức, huyện Kiềm Hóa, Kiềm Châu (nay là thôn Ma Điền, trấn Lạc Khẩu, huyện Ninh Đô, thành phố Cám Châu). Lư Quang Trù từ nhỏ thông minh, thích cưỡi ngựa bắn cung, thường dùng dây leo, binh khí sắc bén và giáp trụ luyện võ. Ông đọc rộng sách vở, quan sát kỹ dân tình, quang minh lỗi lạc, trí dũng song toàn, văn võ toàn tài, được dân quê kính trọng.

Thời đại của Lư Quang Trù chính là thời kỳ suy vong của nhà Đường, xã hội động loạn, đặc biệt từ năm 878 khởi nghĩa Hoàng Sào phá hủy cơ cấu thống trị của hầu hết các khu vực nhà Đường, làm suy yếu nghiêm trọng quyền lực triều đình và các phiên trấn cũ, nhưng hoàng thất quý tộc, quan lại địa chủ và các phiên trấn mới nổi để tăng tài sản và chi trả quân phí khổng lồ, tiến hành chém giết và tranh đoạt khốc liệt hơn. Trong những năm chiến lửa ngập trời ấy, nhân dân rơi vào vực thẳm đau khổ. Lúc bấy giờ, các huyện Kiềm Châu, giặc cướp nổi dậy, đốt phá thành quách, giết người cướp của, hại người già trẻ, cưỡng hiếp phụ nữ, khiến chợ búa thành tro tàn, làng xóm hóa đất cháy, xác chết đầy đường, heo dê kinh hoàng, gà chó không yên, dân không lối sống, ai nấy lo sợ. Chứng kiến cảnh thảm thương ấy, thấy nguyện vọng tha thiết của dân chúng mong ổn định, khao khát sinh tồn, Lư Quang Trù đau đớn trong lòng. Năm 885, tức năm thứ hai sau khi khởi nghĩa Hoàng Sào thất bại, tháng Giêng, Lư Quang Trù 46 tuổi cùng bạn đồng hương Đàm Toàn Bá tại Thạch Khê Đô, huyện Nam Khang (nay là song song hương, huyện Thượng Du) phát động khởi nghĩa, cùng tháng chiếm Kiềm Châu, tự xưng Thứ sử, thực hiện cắt cứ vũ trang, gánh vác trách nhiệm bảo vệ, củng cố, cai trị, khai phá Kiềm Châu. Lúc ấy, Dương Quân Tùng đang ở Cám Châu xem phong thủy cho dân, dựng lều dạy học.

Lư Quang Trù cùng tuổi với Dương Quân Tùng, mời Dương Quân Tùng quy hoạch thành phố và phòng thủ Cám Châu, lần lượt chôn cất cha mẹ cho Lư Quang Trù. Ông nội Lưu Giang Đông lúc ấy đang làm tham chính cho Lư Vương, chứng kiến thuật phong thủy thần kỳ “Tân táng Mão phát” của Dương Quân Tùng, bảo cháu mình là Giang Đông bái Dương Quân Tùng làm thầy học nghệ. Do đó, Lưu Giang Đông trở thành đệ tử thứ hai của Dương Công (đệ tử đầu tiên là sư huynh đồng hương Tăng Văn Địch lớn hơn Lưu Giang Đông 30 tuổi).

Sư徒 Dương Công đi khắp núi sông Nam Cám, để lại nhiều di tích phong thủy, nhưng tác phẩm phong thủy để lại rất ít, nhiều sách mạo danh Dương Cứu Bần thực ra là giả mạo của hậu nhân. Chỉ có Lưu Giang Đông ghi chép một chút, tự xưng “hơi được khẩu quyết Thanh Nang”, dựa vào khẩu quyết viết nên danh tác phong thủy bất hủ Tam Bảo Kinh. Ngoài ra còn soạn Hoài Ngọc Kinh, Hải Để Nhãn, làm khẩu quyết gia truyền. Sau này hậu duệ ông là Khiêm (từng làm Lang trung Lễ bộ nhà Tống, tri châu Nguyên Châu), soạn Nang Kim bảy thiên, gồm Tinh, Long, Huyệt pháp, Ứng án, Tứ thủ, Thủy thành, Minh đường, Thủy khẩu, lời lẽ rõ ràng. Hậu duệ Lưu Giang Đông biên soạn khẩu quyết phong thủy của ông thành Lưu công táng pháp. Sự tích Lưu Giang Đông và Lưu Khiêm được ghi chép trong huyện chí địa phương (Vu Đô huyện chí) và gia phả họ Lưu.

Năm Dương Công qua đời, Lưu Giang Đông mới 23 tuổi. Sau khi Dương Công mất, Lưu Giang Đông hoạt động ở địa phương và Nam Cám hơn 30 năm, để lại nhiều di tích phong thủy. Điển hình nhất là từ đường họ Lưu do Lưu Giang Đông chọn đất xây dựng tại Thượng Não, trong từ đường ngoài thờ tổ tiên họ Lưu, còn tạc tượng Dương Quân Tùng và Lưu Giang Đông đặt cùng thờ cúng.

Sau năm 907, nhà Đường diệt vong, lịch sử bước vào thời Ngũ Đại, Tống. Phần lớn thời gian Lưu Giang Đông hành nghề phong thủy rơi vào thời Ngũ Đại và Tống, nên nhiều sử sách ghi ông là phong thủy sư nhà Tống.

30 năm cuối đời Lưu Giang Đông sống ở khu vực Mai Châu, Quảng Đông, cuối cùng qua đời tại “Liên Hoa tự” trong địa phận Phong Thuận (Kinh Nghĩa). Các nơi như Phong Thuận, Quảng Đông còn lưu giữ âm trạch, dương trạch do Lưu Giang Đông khảo định, đến nay vẫn hưng vượng phát đạt. Theo gia phả họ Trương Kiều Kiến, Phong Thuận: Lưu quốc sư tạo đất khai cơ “Quan Âm tọa liên” cho họ Trương, Thìn sơn kiêm Ất, thủy đi Tuất Kiền Hợi. “Trương thị vi” do Lưu Giang Đông điểm và thiết kế ở Phong Thuận, Quảng Đông cách trấn Kiếm Kiều một sông, sông lớn từ phương Khôn chảy vào trấn này, vòng qua cửa bắc “Trương thị vi” rồi chảy ra phương Ất Thìn. “Trương thị vi” có bốn cửa đông tây nam bắc, bên trong có tổng từ và đại sảnh các phòng. Cửa tây lập Mão sơn Dậu kiêm Giáp Canh, Đinh Mão Đinh Dậu phân kim; cửa đông lập Dậu sơn Mão kiêm Tân Ất, Tân Dậu phân kim; cửa bắc lập Tỵ sơn Hợi hướng, triều nghịch thủy; cửa nam lập Tý sơn Ngọ hướng kiêm Nhâm Bính, Bính Tý phân kim; tổng từ lập Dậu sơn Mão hướng kiêm Canh Giáp, Đinh Dậu Đinh Mão phân kim. Hiện nay vẫn có hàng chục hộ dân sinh sống, phần lớn đã dời ra ngoài. Lưu Giang Đông mất năm Khai Bảo thứ năm nhà Bắc Tống (972), thọ 88 tuổi. Hậu duệ đem di cốt ông từ Phong Thuận, Quảng Đông về quê cũ Cát Khanh, Vu Đô, Giang Tây, hợp táng với cha, do danh tiếng Lưu Giang Đông lớn, nên gọi là “mộ Lưu Giang Đông”. Tương truyền mảnh đất này do chính Dương Cứu Bần điểm. Trong thời gian học nghệ, cha Lưu Giang Đông đột ngột bệnh nặng, Lưu Giang Đông thỉnh Dương Công chọn đất chôn cha. Dương Công đi một vòng núi nhà họ Lưu, về nói với Lưu Giang Đông, đất mộ đã tìm được, ta chôn một đồng tiền ở đó, con tự tìm đi. Lưu Giang Đông biết sư phụ đang thử mình, cẩn thận tìm kiếm trên núi sư phụ đã đi qua, cuối cùng tìm được chỗ sư phụ chôn đồng tiền. Không lâu sau cha mất, an táng tại đó. Mộ phần đến nay còn nguyên vẹn, nằm ở sườn núi Thiên Tự Lĩnh phía đông nam Thượng Não thôn, Cát Oa, Vu Đô (nay là nhóm Hồng Tinh, thôn Tăng Tử), hình hổ xuống núi, huyệt chữ Vương. Lưu Giang Đông có hai phòng thê thiếp, sinh năm con trai hai con gái, hậu duệ từ Thượng Não lan ra các hương trấn Vu Đô và Hưng Quốc, Ninh Đô, thậm chí ra nước ngoài.

Ở một số nơi Cám Châu, người dân địa phương không mấy hiểu biết về sự tích Dương Cứu Bần, nhưng nếu nhắc đến Lưu Giang Đông, hầu hết đều quen tai, chỉ vì ở Vu Đô, Cám Châu và các nơi, câu chuyện về Lưu Giang Đông rải rác trong dân gian, truyền miệng đến nay, được người ta say sưa kể lại. Vì vậy gần như có thể nói, ở một số nơi Cám Châu, tên Lưu Giang Đông đã trở thành đồng nghĩa với phong thủy.

Vậy Lưu Giang Đông là nhân vật như thế nào?

Theo Vu Đô chí – Lưu Giang Đông truyện: 【Lưu Giang Đông, danh Bạch Đầu, vốn là Lưu Thiệu Hậu. Thượng thế có người làm tri Kiềm Châu, từ đó định cư Vu Đô Thượng Lão. Cuối Đường, Dương Quân Tùng tránh loạn Hoàng Sào đến Kiềm Châu. Giang Đông cùng Tăng Văn Địch… truyền thuật, Dương và Tăng đều có văn tự, chỉ Giang Đông hơi có khẩu quyết.】

Trong Cám Châu phủ chí: 【Lưu Giang Đông, người Thư Đô. Học Thanh Ô thuật (phong thủy thuật) từ Dương Quân Tùng.】

Thư Đô huyện chí – Phương kỹ chí: 【Lưu Giang Đông, người Thượng Lao. Dương Quân Tùng tránh loạn Hoàng Sào đến Kiềm Châu, Giang Đông cùng đồng hương Tăng Văn Địch bái sư, lĩnh hội được thuật. Giang Đông không ghi văn tự, chỉ lưu khẩu quyết, nắm gọn yếu chỉ, con cháu truyền lại.】

Lại theo Vu Đô Thượng Khê Lưu thị tộc phổ – Lưu Giang Đông hành tàng ký: 【Công là hậu duệ đại học sĩ Lưu Thiệu, thượng thế có người tri Kiềm Châu, từ đó định cư. Cư Vu Đô Thượng Lão. Tổ phụ làm tham chính cho Lư Vương, từ đó gặp Dương Công, khiến công thụ thuật. Cuối đời hiệu Bạch Đầu. Người nơi khác gọi chợ là: Lưu Thiêm Bát, chỉ biệt danh Thích Bát ở Thượng Lão.】

Trong Thư Đô huyện chí – Phương kỹ chí cũng có ghi chép tương tự: 【Dương Quân Tùng tránh loạn Hoàng Sào đến Kiềm Châu】 (trong đó Thư Đô năm 1954 đổi thành Vu Đô ngày nay).

Còn trong Ninh Đô trực lệ châu chí: 【Hoàng Sào phá kinh thành, trộm bí thuật cấm trung thư, cùng nô đô giám từ Trường An chạy đến Hoài Đức hương, Kiềm Hóa, yêu thích núi sông, từ đó định cư. Truyền thuật cho Tăng Văn Địch, Lưu Giang Đông… các đồ đệ, đời gọi Cứu Bần tiên nhân.】

Lưu thị tộc phổ: 【Uyên Tắc công, tổ mạch ta, tự Giang Đông, hiệu Bạch Đầu, lại danh Tử Thăng điều thị, biệt danh Thích Bát, đời gọi Kiến Đạo tiên sinh. Năm Trung Hòa thứ tư nhà Đường (884) Giáp Thìn, mùng 5 tháng 2 sinh, mất tháng 2 năm Nhâm Thân Khai Bảo thứ năm nhà Tống (972), thọ 89 tuổi, cưới Giang thị, thiếp Trần thị, hợp táng Thiên Tử Lĩnh, vọng giang hổ hình vương tự huyệt.】

Lại chép: 【Công cùng Toàn Bá đồng làm tham chính cho Lư Vương, Dương Quân Tùng tránh loạn đến Kiềm Châu, chôn cha Lư Quang Trù tại Thạch Nhân Bá, từ đó gặp Dương Công cùng Văn Địch, Hồ Ái Tiên… học tập thụ thuật, từ đó lĩnh hội bí mật.】

Tương tự, Giang Tây thông chí cũng có quá nhiều ghi chép tương tự.

Có thể thấy, Lưu Giang Đông dù trong chính sử hay truyền thuyết dân gian, đều là nhân vật lớn được Dương Quân Tùng phong thủy tổ sư chân truyền.

Theo sử liệu, Lưu Giang Đông, tự Uyên Tắc, lại danh Thất Bát, Thiêm Bát, cuối đời hiệu Lưu Bạch Đầu. Người Vu Đô, Cát Oa Thượng Lão (nay Thượng Não), Giang Tây, sinh năm Trung Hòa thứ tư nhà Đường (884 sau Công nguyên). Lúc ấy Dương Quân Tùng vì Hoàng Sào phá kinh thành (nay Tây An), lánh nạn Giang Nam, ứng thỉnh của Tiết độ sứ Kiềm Châu Giang Tây Lư Quang Trù chôn mẹ, nên Dương Quân Tùng tổ sư dùng phong thủy thuật, giúp Lư Quang Trù tìm được một khối phong thủy bảo địa, mà tham quân Lư Quang Trù lúc ấy là Lưu Giang Đông, chứng kiến hết thảy, thực sự thấy thần kỳ “Tân táng Mão phát”, cũng sinh lòng hứng thú lớn với bí mật phong thủy Dương Công, từ đó cùng đồng hương Tăng Văn Địch bái nhập môn hạ Dương Quân Tùng, trở thành một trong những đệ tử đắc ý nhất của Dương Công.

Câu chuyện về Lưu Giang Đông trong dân gian kể không xuể, trong đó thú vị nhất, cũng là truyền kỳ đến nay vẫn được gọi là không thể giải thích, là ở huyện Tầm Ô thuộc thành phố Cám Châu, Giang Tây ngày nay, nơi sản sinh một loại trúc kỳ lạ tên “đảo sáp trúc”.

Ở huyện Tầm Ô, chỉ cần nhắc đến “đảo sáp trúc”, lập tức thu hút sự chú ý của nhiều người, vì mọi người đều quen thuộc với Lưu Giang Đông, từ người già truyền lại đời này sang đời khác, chính là những câu chuyện về việc Lưu Giang Đông suốt đời đi khắp Mân, Việt hai tỉnh, tìm long điểm huyệt cho người ta.

Mà “đảo sáp trúc” chính là câu chuyện kinh điển nhất, cũng khiến người ta suy ngẫm nhất.

Tương truyền sự xuất hiện của loại trúc này chính vì phong thủy bảo địa của Lưu Giang Đông.

Sâu trong núi Tầm Ô, núi non liên miên tú lệ, địa mạch phong phú dày chắc, khiến Lưu Giang Đông suốt đời giao du với núi sông nhận định nơi đây có huyệt vị tốt, nên thường lưu liên ở Tầm Ô và các nơi, vào núi là cả tháng không thôi.

Dấu chân Lưu Giang Đông tìm đất tốt đã bước khắp các tỉnh Mân Việt nối liền Tầm Ô. Tương truyền trong quá trình tìm long điểm huyệt, hễ phát hiện phong thủy tốt, ông sẽ đắp một gò đất hình bán nguyệt làm dấu.

Mà gò đất bán nguyệt này, qua hậu nhân chứng thực, quả thực tồn tại, hậu nhân cũng gọi dấu hiệu đặc biệt này là “Giang Đông khốt”.

Người đầu tiên phát hiện bí mật “Giang Đông khốt” tương truyền là hơn trăm năm sau, một phong thủy kỳ nhân khác hoạt động nhiều nhất ở Định Nam và Tầm Ô — Lại Bố Y.

Theo ghi chép, trong vô số huyệt trường Lưu Giang Đông tìm được, có ba huyệt tốt nhất, một gọi Quan Âm tỷ, một gọi Canh Cô tỷ, một gọi Lãi Lỵ tỷ. Huyệt Quan Âm tỷ và Canh Cô tỷ đều bị Lại Bố Y phát hiện hơn trăm năm sau.

Theo ghi chép, huyệt Quan Âm tỷ được tặng cho họ Viên Nam Kiều, Tầm Ô làm phong thủy hạ, huyệt Canh Cô tỷ cho họ Bành Quế Trúc Mạo, Tầm Ô làm phong thủy hạ, hai nhà hậu duệ phát tích vinh xương, nhân đinh hưng vượng, đến nay vẫn hưởng thụ phong thủy của Lưu Giang Đông ban tặng.

Nhưng chỉ có huyệt Lãi Lỵ tỷ đến nay vẫn chưa bị ai phát hiện. Thì ra Lưu Giang Đông thích đắp “Giang Đông khốt” tự biết, huyệt Lãi Lỵ tỷ này tuyệt không phải người thường có thể hưởng, chính là “phúc nhân cư phúc địa, phúc địa phúc nhân cư”, đây là một đế vương huyệt hiếm có.

Do Lưu Giang Đông hiểu, đế vương huyệt như vậy chỉ có thể dùng cho đế vương chi nhân, dưới sự thôi thúc của tiềm thức này, Lưu Giang Đông không để lại bất kỳ dấu hiệu nào cho Lãi Lỵ tỷ, nhưng ông văn tài ngang dọc, lại để lại một bài ca quyết.

Bài ca quyết này đến nay vẫn lưu truyền ở khu vực Tầm Ô, nó như một bí ẩn ngàn năm do Lưu Giang Đông để lại, chờ người hữu duyên hậu thế tìm kiếm bí mật trong đó.

Ca quyết viết: “Diện triều cửu bàn long, hoàn vệ thập bát trụ, đầu chẩm thiên quan chương, cước đạp nga tử hồ, thụ năng đắc chính huyệt, tam thế liệt cửu khanh, duệ tôn bố ngũ châu, đại đại kim ngân hồ.”

Bài ca quyết này truyền đời, không biết đã thu hút bao nhiêu người tìm kiếm phong thủy bảo địa gọi là Lãi Lỵ tỷ này. Mọi người chỉ phát hiện, ở khu vực Lĩnh Dương, Tân Thôn, Nga Tử Hồ ít người ở, phạm vi hơn chục dặm, lại xuất hiện chi chít mộ phần, có lẽ mọi người đều hy vọng mộ tổ của mình có thể chôn ở mảnh đất phong thủy lớn do Lưu Giang Đông tổ sư điểm trung.

Thực ra, đế vương huyệt do Lưu Giang Đông tổ sư tìm được này, từng bị một ông lão chăn vịt gặp phải một lần, mà nguồn gốc “đảo sáp trúc” cũng chính vì vậy.

Tương truyền ở địa phương có một ông lão, khi chăn vịt mơ màng nằm một lúc trên sườn núi, không ngờ chớp mắt, không biết từ đâu mọc ra một đàn kiến trắng chi chít, nhanh chóng bao phủ ông, chỉ còn hai chân mang giày cỏ lộ ra ngoài.

Ông lão mù sương, như lạc vào tiên cảnh, thực sự không tỉnh lại được. Nhiều canh giờ sau, hai con trai ông mới tìm được đàn vịt nhà trước, rồi từ đôi giày cỏ quen thuộc gạt kiến trắng bao phủ cha.

Khi ông lão tỉnh lại, như được tiên nhân chỉ điểm, một mực khẳng định nơi đây chính là phong thủy bảo địa Lãi Lỵ tỷ do Lưu Giang Đông điểm, mà hai con trai lại không tin.

Ông lão lại tin sâu không nghi ngờ, và để nhớ địa hình phương vị, ông nhổ một cây trúc bên cạnh cắm ngược vào chỗ vừa ngủ, làm dấu.

Trong dân gian Khách gia địa phương, suốt đời tìm kiếm một phong thủy bảo địa có thể khiến con cháu phát tích, thậm chí không tiếc dùng mạng sống đổi lấy. Nên ngày hôm sau, ông lão ăn mặc chỉnh tề, vác cuốc chuẩn bị tự vẫn trên phong thủy bảo địa phát hiện hôm qua.

Nhưng chuyện lạ xảy ra, khi ông lại đến sườn núi này, chỉ qua một đêm, trên sườn núi đã mọc đầy trúc trải khắp núi đồi.

Hơn nữa, những cây trúc ấy, giống hệt cây ông làm dấu hôm qua, đều cắm ngược dưới đất.

Có hậu nhân vì truyền thuyết này làm một bài thơ, trong thơ viết: “Đắc thử phúc địa quý khả khanh, chỉ duyên tử tôn lộc tướng khinh, hữu duyên vô phận tố liễu ký, đảo sáp trúc tử dã sinh căn”. Tương truyền từ đó, loại trúc hiếm thấy này năm này qua năm khác mọc ở khu vực này.

Thực tế, “đảo sáp trúc” quả thực tồn tại.

Loại trúc này cao hơn một thước, thân trúc trên thô dưới mịn, lá trúc văn trúc đều hướng xuống, người địa phương gọi là đảo sáp trúc. Loại trúc hiếm thấy này, thập niên 80 thế kỷ trước, chuyên gia Viện Lâm khoa quốc gia từng đến Tầm Ô khảo sát chuyên biệt, còn thu thập mẫu vật mang về Bắc Kinh, thực sự hiếm thấy, không thể giải thích.

Thực ra, từ câu chuyện này không khó thấy, chính vì trên phong thủy bảo địa Lưu Giang Đông tìm được, sinh khí dồi dào, nên dù trúc cắm ngược cũng có thể sinh căn phát triển, điều này từ góc độ khác chứng minh tạo nghệ phong thủy của Lưu Giang Đông tổ sư đã đạt đến mức phi phàm.

Những câu chuyện tương tự còn rất nhiều, nhưng chúng kể cùng một đạo lý.

Ngàn năm qua, phong thủy thuật ở vùng đất Cám Châu, Giang Tây được truyền thừa phát dương, mà đặc biệt truyền nhân nhất mạch Lưu Giang Đông, kế thừa di huấn của Lưu Giang Đông và Dương Công tổ sư, tạo phúc cho dân, cứu tế nghèo khó, đời này qua đời khác truyền bá phong thủy thuật, trở thành nhất mạch phong thủy học thuật Dương Công Giang Đông hiếm có trên đời ngày nay.

Đặc biệt ở Vu Đô, thành phố Cám Châu, càng là tàng long ngọa hổ, cao nhân辈 xuất, họ kế thừa truyền thống, luôn ở đây bí thuật phong thủy truyền thống. Mà tổ sư của họ Lưu Giang Đông, thực ra vẫn ở đó.

Cổ mộ Lưu Giang, tồn tại đến nay, tương truyền do chính Dương Công điểm. Vì Lưu Giang Đông táng trong mộ huyệt cha mình, mà mộ huyệt cha ông chính là Dương Công tự tay tặng đệ tử.

Vị trí mộ địa nằm ở lưng chừng núi phía tây Thượng Não thôn ngày nay, Vu Đô, Thượng Thư Oa ngọa hổ vọng giang, mộ phần hoàn hảo vô tổn, là điển hình táng pháp long táng kỳ lộc trong phong thủy Dương Công.

Ở Vu Đô, các phong thủy sư vẫn kế thừa truyền thống nhất mạch phong thủy Dương Công Giang Đông, dạy đệ tử từ lý luận cơ bản đến thực tiễn kết hợp, từ sách vở văn tự đến truyền miệng, chỉ có đệ tử tôn sư trọng đạo mới cuối cùng được sư phụ khẳng định, truyền được chân học, đây cũng là tiêu chuẩn đạo đức không thể thiếu trong văn hóa truyền thống Trung Quốc.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *