Địa Chi và Sao Bắc Đẩu
Địa Chi được xác định dựa trên hướng chỉ của cán sao Bắc Đẩu, tức là dựa trên việc bảy ngôi sao Bắc Đẩu xoay quanh sao Bắc Cực một vòng tròn trong một năm để đánh dấu bốn mùa. Như câu nói: “Cán Đẩu chỉ đông, thiên hạ đều xuân; cán Đẩu chỉ nam, thiên hạ đều hạ; cán Đẩu chỉ tây, thiên hạ đều thu; cán Đẩu chỉ bắc, thiên hạ đều đông.”

Khi cán Đẩu chỉ về hướng Tý, thì đến tháng Tý (tháng Mười Một). Vào ngày Đông chí, hoàng kinh của mặt trời đạt 270°, rơi vào khoảng ngày 21-23 tháng 12 dương lịch hàng năm, lúc này cán Đẩu chỉ về hướng Tý (sao Bắc Cực nằm đúng trên đường kéo dài của cán Đẩu). Vào thời nhà Chu, tháng Tý được chọn làm tháng đầu năm, Đông chí đánh dấu điểm khởi đầu của năm mới, khi mặt trời ở Bắc bán cầu có độ cao thấp nhất, thời gian ban ngày ngắn nhất, và khi sao Bắc Cực nằm trên đường kéo dài chính xác của cán Đẩu, năm mới của nhà Chu bắt đầu.
Mùa xuân là mùa đầu tiên trong năm, và khi cán Đẩu chỉ về hướng Dần (ba tháng sau Đông chí), thiên hạ đều vào xuân. Vì vậy, các triều đại đều lấy thời điểm cán Đẩu chỉ về hướng Dần làm tháng Giêng.

Hướng chỉ của cán sao Bắc Đẩu được gọi là “Kiến”, “Kiến” biểu thị hướng chỉ của đầu cán Đẩu. Trong văn hóa truyền thống, vị trí Dần tương ứng với “Cấn vị” trong hậu thiên bát quái, là phương vị kết thúc một năm và bắt đầu một năm mới, biểu thị sự kết thúc và khởi đầu, như trong Kinh Dịch – Thuyết Quái Truyện: “Cấn, quái Đông Bắc, là nơi vạn vật kết thúc và cũng là nơi vạn vật bắt đầu.” Do đó, cán Đẩu bắt đầu từ hướng chính đông lệch bắc (vị trí Dần, tức Cấn vị trong hậu thiên bát quái), xoay một vòng qua các hướng đông, nam, tây, bắc, tạo thành một chu kỳ, gọi là một năm, và lấy ngày Lập Xuân làm điểm khởi đầu của năm.
Các tiết khí được xác định bởi hướng chỉ của cán Đẩu, bắt đầu từ Lập Xuân (Dần) và kết thúc ở Đại Hàn (Sửu). Khi cán Đẩu chỉ về hướng chính bắc “Tý” là tiết Đông chí. Khi cán Đẩu chỉ về hướng chính đông “Dần” là tiết Lập Xuân. Khi cán Đẩu chỉ về hướng bắc “Sửu” là tiết Đại Hàn.
Các tháng tương ứng với các Địa Chi khác được suy ra lần lượt: tháng Mão – tháng Hai, tháng Thìn – tháng Ba, … tháng Tý – tháng Mười Một, tháng Sửu – tháng Mười Hai.
Hai mươi tư tiết khí: Lập Xuân, Vũ Thủy (Dần), Kinh Trập, Xuân Phân (Mão), Thanh Minh, Cốc Vũ (Thìn), Lập Hạ, Tiểu Mãn (Tỵ), Mang Chủng, Hạ Chí (Ngọ), Tiểu Thử, Đại Thử (Mùi), Lập Thu, Xử Thử (Thân), Bạch Lộ, Thu Phân (Dậu), Hàn Lộ, Sương Giáng (Tuất), Lập Đông, Tiểu Tuyết (Hợi), Đại Tuyết, Đông Chí (Tý), Tiểu Hàn, Đại Hàn (Sửu).



